Thay đổi tương quan lực lượng Chiến_tranh_Thái_Bình_Dương

Lực lượng quân sựNhậtMỹ
Năm 19412,1 triệu lục quân
320.000 lính hải quân
1.500 máy bay lục quân và 3.300 máy bay hải quân
1,48 triệu tấn tải trọng tàu chiến
1,52 triệu lục quân
360.000 lính hải quân
8.700 máy bay lục quân và 3.500 máy bay hải quân
1,31 triệu tấn tải trọng tàu chiến
Năm 19432,9 triệu lục quân
680.000 lính hải quân
2.000 máy bay lục quân và 7.100 máy bay hải quân
1,4 triệu tấn tải trọng tàu chiến
7 triệu lục quân
2,2 triệu lính hải quân
8.700 máy bay lục quân và 3.500 máy bay hải quân
2,8 triệu tấn tải trọng tàu chiến

Số lượng tàu của hải quân Mỹ:

Loại7/12/194114/5/1945Ghi chú
Thiết giáp hạm1723
Tàu sân bay hạm đội728
Tàu sân bay hạng nhẹ/hộ tống171
Tuần dương hạm3772
Khu trục hạm171377
Tàu Frigate0361
Tàu ngầm112232
Tàu đổi bộ02.547(tính cả tàu đổ bộ cỡ nhỏ)
Tổng số tàu7906.768[110]

Nhìn chung, nhờ ưu thế về dân số đông, giàu tài nguyên và quy mô nền công nghiệp lớn hơn nhiều so với Nhật, tương quan lực lượng ngày càng nghiêng về phía Mỹ. Tính từ tháng 12/1941 cho đến khi chiến tranh kết thúc, Nhật đóng được 18 tàu sân bay (bao gồm 7 tàu sân bay cỡ lớn và 11 tàu sân bay hạng nhẹ/tàu sân bay hộ tống). Trong khi đó, Mỹ huy động được 143 tàu sân bay, bao gồm việc đóng mới 24 tàu sân bay cỡ lớn và sửa đổi 119 tàu tuần dương/tàu vận tải thành 9 tàu sân bay hạng nhẹ và 110 tàu sân bay hộ tống (39 chiếc được bán cho Hải quân Anh, còn 71 chiếc được trang bị cho Hải quân Mỹ), chưa kể nước Anh cũng chế tạo được 19 tàu sân bay cỡ lớn và 7 tàu sân bay hộ tống. Hơn 75.000 máy bay đã được chuyển giao cho Hải quân Mỹ trong khoảng thời gian từ 1940 đến 1945. Sức mạnh của không lực hải quân Mỹ đã tăng từ 10.923 người (2.695 trong số đó là phi công) vào năm 1940 lên đến 437.524 người (với 60.747 phi công) vào tháng 8 năm 1945. Hơn 66.000 tàu, xuồng đổ bộ đã được Mỹ chế tạo trong chiến tranh, và đại đa số được sử dụng ở Thái Bình Dương. Vào tháng 12 năm 1941, Hải quân Mỹ có sức mạnh tổng hợp gồm 336.274 sĩ quan và quân nhân; đến năm 1945, hải quân Mỹ đã có 3.383.196 quân nhân, trong đó có 1.574.614 người đang phục vụ.

Không chỉ vượt trội về số lượng, chất lượng vũ khí và huấn luyện của hải quân Mỹ cũng dần vượt hơn hơn so với Nhật. Đầu chiến tranh, tiêm kích Mitsubishi A6M "Zero" của Nhật vượt trội so với tiêm kích của Mỹ, nhưng từ đầu năm 1944 thì các tiêm kích mới như F6F Hellcat, F4U Corsair của Mỹ đã vượt trội hơn Zero. Đầu chiến tranh, các phi công Nhật có kỹ năng tốt hơn so với các phi công Mỹ, nhưng do tổn thất cao trong chiến đấu và tốc độ đào tạo phi công của Nhật khá chậm nên tới năm 1944, hầu hết phi công Nhật chỉ là tân binh có kỹ năng kém hơn phi công Mỹ. Đầu chiến tranh, các thủy thủ Nhật có khả năng đánh ban đêm và xạ kích tầm xa tốt hơn so với các thủy thủ Mỹ, nhưng từ năm 1943 thì ưu thế này đã bị đảo ngược do các tàu Mỹ đã được trang bị radar. Phía Nhật cũng đã cố gắng nghiên cứu các vũ khí mới như tiêm kích Mitsubishi J2M, Kawanishi N1K, trang bị radar cho tàu chiến... nhưng việc thiếu tài nguyên và quy mô công nghiệp nhỏ đã khiến Nhật Bản không thể sản xuất các loại vũ khí mới với số lượng đủ lớn để thay đổi cục diện.

Do bị áp đảo về lực lượng, từ cuối năm 1943, Nhật Bản bị đẩy vào thế phòng ngự bị động cho tới khi thất bại.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Thái_Bình_Dương http://ajrp.awm.gov.au/AJRP/AJRP2.nsf/437f72f8ac2c... http://wwii.ca/index.php?page=Page&action=showpage... http://www.china.org.cn/english/features/celebrati... http://www.avalanchepress.com/MexicanAirForce.php http://forum.axishistory.com/viewtopic.php?f=65&t=... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/137119/B... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/247568/B... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/310634/k... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/381684/B... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/456391/B...